Hàng năm, ước tính ung thư hậu môn chiếm khoảng 8590 trường hợp mắc và khoảng 1350 trường hợp tử vong ở Hoa Kỳ. Triệu chứng chính là đại tiện ra máu. Chẩn đoán bằng nội soi. Các phương án điều trị bao gồm phẫu thuật, hóa trị và xạ trị.
Ung thư biểu mô tế bào vảy (tế bào vảy không sừng hóa hoặc ung thư biểu mô dạng tế bào đáy) của hậu môn trực tràng chiếm từ 3 đến 5% số ca ung thư đại tràng đầu xa. Ung thư biểu mô tế bào đáy, bệnh Bowen (ung thư biểu mô tế bào vẩy trong biểu bì), bệnh Paget ngoài vú, ung thư biểu mô có nguồn gốc từ ổ nhớp và u melanin ác tính là các loại ít phổ biến hơn. Các loại khối u khác bao gồm: u lympho và nhiều loại sarcoma. Di căn xuất hiện dọc theo các mạch bạch huyết của trực tràng và trong các hạch bạch huyết ở bẹn.
Các yếu tố nguy cơ đối với ung thư hậu môn bao gồm:
- Nhiễm trùng vi rút papilloma ở người – HPV
- Rò hậu môn mạn tính
- Da hậu môn được xạ trị
- Bệnh bạch sản
- Nhiễm bệnh u lympho sinh dục (hay còn gọi là bệnh hột soài)
- Nhiễm bệnh mụn cóc vùng sinh dục
- Hút thuốc
Những người có quan hệ tình dục qua đường hậu môn dễ có tăng nguy cơ. Bệnh nhân nhiễm HPV có thể có biểu hiện loạn sản ở biểu mô hậu môn hơi bất thường hoặc trông có vẻ bình thường (phát triển bất thường trong biểu mô hậu môn – phân loại mô học độ I, II hoặc III). Những thay đổi này phổ biến hơn ở những bệnh nhân nhiễm HIV (xem Ung thư tế bào vảy của hậu môn và âm hộ). Mức độ cao hơn có thể tiến triển thành ung thư biểu mô xâm lấn. Không rõ liệu việc nhận biết sớm và loại trừ có cải thiện kết quả lâu dài hay không; do đó, các khuyến nghị sàng lọc không rõ ràng.
Các triệu chứng và dấu hiệu của ung thư hậu môn
Đại tiện ra máu là triệu chứng ban đầu phổ biến nhất của ung thư hậu môn. Một số bệnh nhân bị đau, cảm giác buốt mót, hoặc cảm giác đại tiện không hết phân. Có thể sờ thấy u khi thăm trực tràng bằng ngón tay.

Bức ảnh này cho thấy một khối u ác tính phát sinh từ hậu môn.
Chẩn đoán ung thư hậu môn
- Soi đại tràng sigma hoặc soi đại tràng
- Đôi khi sinh thiết
Soi đại tràng sigma bằng ống mềm hoặc soi hậu môn bằng ống cứng hoặc soi đại trạng sigma được thực hiện để đánh giá khu vực đó. Sinh thiết da do bác sĩ da liễu hoặc bác sĩ phẫu thuật thực hiện có thể cần thiết đối với các tổn thương gần vùng nối vảy trụ (đường Z). Bất cứ khi nào chảy máu trực tràng xảy ra, ngay cả ở những bệnh nhân có bệnh trĩ rõ ràng hoặc bệnh túi thừa đã biết, ung thư đang cùng tồn tại phải được loại trừ.
Nên phân giai đoạn bằng CT, MRI hoặc chụp cắt lớp phát xạ positron (PET).
Điều trị ung thư hậu môn
- Phối hợp hoá trị và xạ trị
- Đôi khi phẫu thuật cắt bỏ
Kết hợp hóa trị và xạ trị là phương pháp điều trị ban đầu trong hầu hết các trường hợp và mang lại tỷ lệ khỏi bệnh cao khi được sử dụng cho các khối u hậu môn và các khối u có nguồn gốc từ ổ nhớp.
Phẫu thuật cắt trực tràng đường bụng-tầng sinh môn được chỉ định khi xạ trị và hóa trị không dẫn đến sự thoái triển hoàn toàn của khối u hoặc có bệnh tái phát.
Nguồn: Ung thư hậu môn – Rối loạn tiêu hóa – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia (msdmanuals.com)